Đáp số chính xác: 24 giờ
Quét thông khí/tưới máu (VQ) được sử dụng cho thuyên tắc phổi. Thuyên tắc phổi là tình trạng động mạch phổi của bệnh nhân bị tắc nghẽn do dị vật nào đó hoặc do cục máu đông. Nó cũng được sử dụng để kiểm tra hoạt động của phổi trước khi phẫu thuật phổi.
Quá trình quét này bao gồm hai phần, tức là thông khí và tưới máu. Mục đích của việc thông gió là để kiểm tra xem luồng khí đến phổi tốt như thế nào. Mục đích của tưới máu là để đo lưu thông máu trong phổi. Để thực hiện quá trình quét này, bệnh nhân phải tiếp xúc với chất phóng xạ. Bệnh nhân được tiêm hai lần các chất phóng xạ này, tức là trong quá trình thông khí và truyền dịch.
Bạn nhiễm phóng xạ trong bao lâu sau khi quét VQ?
một phần của quét | Dược phẩm phóng xạ đã qua sử dụng | Liều dùng |
Thông gió | 99Tc: 99Tc-DTPA | 900 đến 1,300 MBq |
Truyền dịch | 99mTc-MAA | 40 đến 150 MBq |
Quét thông khí/tưới máu (V/Q) là quét cho bệnh nhân tiếp xúc với bức xạ ion hóa. Sau khi quét xong, bệnh nhân sẽ được bác sĩ giữ lại một lúc vì họ có thể cảm thấy chóng mặt. Họ cũng bị trì hoãn vì các bác sĩ muốn xem liệu bệnh nhân có bị phản ứng dị ứng nào không. Quá trình quét này cũng có thể khiến vị trí tiêm tĩnh mạch của một số bệnh nhân sưng lên hoặc chuyển sang màu đỏ. Sau khi xét nghiệm xong, bệnh nhân phải uống nhiều chất lỏng. Điều này là do uống chất lỏng sẽ giúp các hạt phóng xạ này rời khỏi cơ thể bạn.
Sau khi bệnh nhân trở về nhà, nếu vị trí tiêm tĩnh mạch gặp bất kỳ tác dụng phụ nào như sưng, đau hoặc đỏ, bệnh nhân phải liên hệ với bác sĩ ngay lập tức. Những loại hiệu ứng này có nghĩa là bệnh nhân đã bị nhiễm trùng. Mặc dù việc quét này không ảnh hưởng đến lượng thức ăn ăn vào nhưng đôi khi bác sĩ có thể gợi ý cho bệnh nhân điều ngược lại. Họ cũng cảnh báo bệnh nhân không được thực hiện bất kỳ thủ tục hạt nhân nào cho đến khi các hạt phóng xạ rời khỏi cơ thể họ, tức là trong 24 giờ tới và nếu có thể là 48 giờ tiếp theo.
Do đó, tất cả các dược phẩm phóng xạ được đưa vào cơ thể bệnh nhân mất khoảng 24 giờ để hoàn toàn rời khỏi cơ thể bệnh nhân. Một số hạt phóng xạ mà họ đã nhận được trong quá trình quét, rời khỏi cơ thể qua nước tiểu và các hạt phóng xạ còn lại bị phân hủy hoàn toàn bên trong cơ thể họ.
Nhưng vì mọi lần quét đều có rủi ro của nó, nên quét VQ cũng có một số rủi ro. Hầu hết các rủi ro khi quét VQ đều liên quan đến bức xạ mà bệnh nhân nhận được. Những rủi ro này là nhiễm trùng, chảy máu quá nhiều, hoặc phản ứng dị ứng.
Tại sao bạn bị nhiễm phóng xạ trong thời gian dài sau khi quét VQ?
Quét VQ dài khoảng 45-60 phút và được chia thành hai phần, tức là thông khí và tưới máu. Ở phần đầu tiên, bác sĩ bảo bệnh nhân nằm trên bàn và tiêm cho anh ta một liều hạt phóng xạ. Trong phần này, bệnh nhân phải hít những hạt này thông qua máy phun sương, máy này sẽ chuyển chất lỏng thành bình xịt. Bệnh nhân hít những hạt này trong khoảng năm phút. Sau khi hít các hạt phóng xạ, máy quét phía trên bàn bắt đầu chụp ảnh phổi của bệnh nhân từ các góc độ khác nhau.
Trong phần thứ hai của quá trình quét, bác sĩ sẽ tiêm một lượng chất phóng xạ khác vào tĩnh mạch của cánh tay bệnh nhân. Sau khi được tiêm, các chất này chảy qua máu và đi vào phổi của bệnh nhân. Sau đó, máy quét sẽ lại chụp ảnh phổi của bệnh nhân từ các góc độ khác nhau. Bệnh nhân phải nằm yên hoàn toàn vì hình ảnh có thể bị mờ nếu bạn di chuyển.
Bác sĩ nên rất cẩn thận trong khi đưa ra liều lượng của các hạt phóng xạ. Điều này là do nếu liều lượng đưa ra cao hơn một chút so với lượng chúng ta tiếp xúc tự nhiên, thì nó có thể gây ra nhiều tác dụng phụ như nhiễm trùng, chảy máu nhiều hoặc phản ứng dị ứng.
Ngoài ra, bệnh nhân phải thông báo cho bác sĩ nếu họ đang mang thai hoặc đang trong thời kỳ cho con bú. Điều này là do lượng bức xạ bình thường được cung cấp cho bệnh nhân là nguy hiểm cho em bé. Do đó, bác sĩ làm giảm lượng bức xạ mà bệnh nhân nhận được. Nếu bệnh nhân đang cho con bú, thì cô ấy nên vắt đủ sữa mẹ trước kỳ kiểm tra. Điều này là do quá trình quét sẽ ngừng cho con bú trong một ngày. Vì vậy, tốt hơn hết là không nên quét VQ nếu không khẩn cấp.
Kết luận
Đối với lần chụp này, bệnh nhân không phải chuẩn bị gì trước đó. Các bác sĩ sẽ chỉ yêu cầu bệnh nhân chụp x-quang phổi trước khi chụp VQ. Lượng bức xạ cho bệnh nhân được quyết định nghiêm ngặt. Do đó, mức độ phơi nhiễm bức xạ chỉ có thể bằng hoặc thấp hơn mức đó. Nhưng nếu cao hơn nữa thì sẽ rất nguy hiểm cho bệnh nhân.
Nhưng ngày nay quét VQ không được sử dụng phổ biến để kiểm tra thuyên tắc phổi. Ngày nay, chất cản quang được sử dụng phổ biến hơn. Nhưng đối với các vấn đề như suy thận không thể sử dụng chất cản quang, do đó, chụp VQ được sử dụng. Quét VQ cũng có thể được sử dụng cho các vấn đề nghiêm trọng về phổi. Những vấn đề về phổi này bao gồm COPD (bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính) hoặc viêm phổi. Quét VQ cũng được sử dụng để kiểm tra hoạt động của phổi trước và sau phẫu thuật cắt thùy.
Mô tả chi tiết về quy trình quét VQ và các biện pháp phòng ngừa sau quét rất rõ ràng.
Tôi đồng ý, mặc dù rủi ro khá đáng lo ngại.
Những rủi ro liên quan là khá đáng báo động, nhưng điều quan trọng là phải được thông báo.
Bài viết này trình bày một phân tích sâu sắc và toàn diện về quy trình quét VQ và các yếu tố cần xem xét sau khi quét.
Quả thực, những hiểu biết sâu sắc về tác động của chất phóng xạ lên cơ thể khá sáng tỏ.
Thông tin chi tiết về các chất phóng xạ và các biện pháp phòng ngừa là rất quan trọng đối với bất kỳ ai đang cân nhắc việc quét VQ.
Bài viết giải thích rõ ràng quá trình quét VQ và các biện pháp phòng ngừa cần thiết cần thực hiện. Rất nhiều thông tin.
Quả thực vậy, nhưng hậu quả phóng xạ gây ra khá đáng lo ngại.
Bài viết rất nhiều thông tin! Cảm ơn bạn đã giải thích quá trình quét VQ và những rủi ro liên quan một cách kỹ lưỡng.
Tôi đồng ý, đây thực sự là thông tin hữu ích, đặc biệt đối với những bệnh nhân cần chụp VQ.
Thực sự có nhiều thông tin, mặc dù những rủi ro nghe có vẻ khá đáng lo ngại.
Một bài viết toàn diện về quét VQ, quy trình của nó và các biện pháp phòng ngừa cần thiết sau quét. Rất nhiều thông tin.
Thật vậy, điều cần thiết là bệnh nhân phải nhận thức được những rủi ro liên quan.
Bài viết này cung cấp thông tin có giá trị về quá trình quét VQ và những rủi ro liên quan đến nó.
Lời giải thích về những rủi ro liên quan đến việc quét VQ khá đáng lo ngại.
Những rủi ro liên quan chắc chắn là điều cần phải thận trọng.
Bài viết cung cấp giải thích sâu sắc về quy trình quét VQ và các biện pháp phòng ngừa mà bệnh nhân cần thực hiện.
Có, điều cần thiết là phải hiểu những rủi ro liên quan.
Khá nhiều thông tin, nhưng tác dụng phụ khá đáng lo ngại.
Tôi đánh giá cao thông tin chi tiết về bản quét VQ và chất phóng xạ được sử dụng. Bài viết được trình bày tốt.
Đồng ý, lời giải thích chi tiết về các chất được sử dụng là rất hữu ích.
Bài viết này đã trình bày giải thích rõ ràng về quy trình quét VQ, các rủi ro của nó và các biện pháp phòng ngừa cần thiết. Rất sâu sắc.
Thật vậy, mặc dù nó cung cấp sự rõ ràng về quy trình nhưng những rủi ro vẫn khá đáng báo động.
Bài viết cung cấp sự hiểu biết toàn diện về quá trình quét VQ và thời gian cần thiết để các hạt phóng xạ rời khỏi cơ thể.
Có, điều quan trọng là phải biết thời gian tồn tại của phóng xạ sau khi chụp.